Severity: Warning
Message: count(): Parameter must be an array or an object that implements Countable
Filename: models/Blog_model.php
Line Number: 103
Backtrace:
File: /home/hoangson/web/botmauhoangson.com/public_html/application/modules/Blog/models/Blog_model.php
Line: 103
Function: _error_handler
File: /home/hoangson/web/botmauhoangson.com/public_html/application/modules/Blog/controllers/Blog.php
Line: 97
Function: related
File: /home/hoangson/web/botmauhoangson.com/public_html/index.php
Line: 293
Function: require_once
17/04/2017 01:51, Theo Bột màu Hoàng Sơn |
1. Đường xâm nhập của hóa chất vào cơ thể con người
Hóa chất có thể đi vào cơ thể con người theo 3 đường:
- Đường hô hấp: khơi hít thở các hóa chất dưới dạng khí, hơi hay bụi.
- Hấp thụ qua da: khơi hóa chất dây dính vào da.
- Đường tiêu hóa: do ăn, uống hoặc sử dụng những dụng cụ ăn đã bị nhiễm hóa
chất.
a) Qua đường hô hấp
Một hóa chất khơi lọt vào đường hô hấp sẽ kích thích màng nhầy của đường hô hấp
trên và phế quản - đây là dấu hiệu cho biết sự hiện diện của hóa chất. Sau đó,
chúng sẽ xâm nhập sâu vào phổi gây tổn thương phổi hoặc lưu hành trong máu. Mức
độ thâm nhập của các hạt bụi vào cơ thể phụ thuộc vào kích thước hạt và tính tan
của chúng.
b) Hấp thụ hóa chất qua da
Một trong những đường xâm nhập của hóa chất vào cơ thể là qua da. Độ dày của da
cùng với sự đổ mồ hôi và tổ chức mỡ ở lớp dưới da có tác dụng như một hàng rào
bảo vệ chống lại việc hóa chất xâm nhập vào cơ thể và gây các tổn thương cho da.
Hóa chất dây dính trên da có thể có các phản ứng sau:
- Phản ứng với bề mặt của da gây viêm da;
- Xâm nhập qua da, kết hợp với tổ chức protein gây dị ứng da.
- Xâm nhập qua da vào máu.
c) Qua đường tiêu hóa
Do bất cẩn để chất độc dính trên môi, mồm rồi vô tình nuốt phơi hoặc ăn, uống,
hút thuốc trong khơi bàn tay dính hóa chất hoặc dùng thức ăn và đồ uống bị nhiễm
hóa chất là những nguyên nhân chủ yếu để hóa chất xâm nhập vào cơ thểqua đường
tiêu hóa.
Ngoài ra, có một số hạt bụi từ đường thở lọt vào họng và sau đó theo nước bọt
vào đường tiêu hóa.
Thông thường hóa chất hấp thụ qua đường tiêu hóa ít hơn so với 2 đường trên, hơn
nữa tính độc sẽ giảm khi qua đường tiêu hóa do tác động của dịch dạ dày và dịch
tụy.
2. Mức độ ảnh hưởng của hóa chất đối với sức khỏe phụ thuộc vào
2.1 Loại hóa chất tiếp xúc
Đặc tính lý, hóa của hóa chất quyết định khả năng xâm nhập của nó vào cơ thể con
người, chẳng hạn: các hóa chất dễ bay hơi sẽ có khả năng tạo ra trong không khí
tại nơi làm việc một nồng độ cao; các chất càng dễ hòa tan trong dịch thể, mỡ và
nước thì càng độc...
2.2 Nồng độ và thời gian tiếp xúc
Về nguyên tắc, tác hại của hóa chất đối với cơ thểphụ thuộc vào lượng hóa chất
đa hấp thu. Trong trường hợp hấp thu qua đường hô hấp, lượng hấp thu phụ thuộc
chính vào nồng độ của hóa chất trong không khí và thời gian tiếp xúc. Thông
thường, khơi tiếp xúc trong thời gian ngắn nhưng với nồng độ hóa chất cao có thể
gây ra những ảnh hưởng cấp tính (nhiễm độc cấp), trong khơi đó tiếp xúc trong
thời gian dài nhưng với nồng độ thấp sẽ xảy ra hai xu hướng: hoặc là cơ thểchịu
đựng được, hoặc là hóa chất được tích lũy với khối lượng lớn hơn, để lại ảnh
hưởng mãn tính.
2.3 Ảnh hưởng kết hợp của các hóa chất
Trong một số trường hợp khi xâm nhập vào cơ thể giữa hai hay nhiều hóa chất có
thể kết hợp với nhau tạo ra một chất mới với những đặc tính khác hẳn và sẽ có
hại tới sức khỏe hơn tác hại của từng hóa chất thành phần.
2.4 Tính mẫn cảm của người tiếp xúc
Có sự khác nhau lớn trong phản ứng của mỗi người khơi tiếp xúc với hóa chất.
Tiếp xúc với cùng một lượng trong cùng một thời gian một vài người bị ảnh hưởng
trầm trọng, một vài người bị ảnh hưởng nhẹ
2.5 Các yếu tố làm tăng nguy cơ người lao động bị nhiễm độc
- Vi khí hậu:
+ Nhiệt độ cao: làm tăng khả năng bay hơi của chất độc, tăng tuần hoàn, hô hấp
do đó làm tăng khả năng hấp thu chất độc.
+ Độ ẩm không khí tăng: làm tăng sự phân giải của một số hóa chất với nước, tăng
khả năng tích khí lại ở niêm mạc, làm giảm hơi độc bằng mồ hôi, do đó cũng làm
tăng nguy cơ bị nhiễm độc.
- Lao động thể lực quá sức làm tăng tuần hoàn, hô hấp và tăng mức độ nhiễm độc.
- Chế độ dinh dưỡng không đủ hoặc không cân đối làm giảm sức đề kháng của cơ
thể...
3. Tác hại của hóa chất đối với cơ thể người
Khi tiếp xúc với hóa chất với nồng độ vượt quá ngưỡng cho phép, hóa chất có
thể gây những tác động nguy hiểm cho cơ thể như:
- Kích thích, dị ứng.
- Gây ngạt.
- Gây mê và gây tê.
- Tác động đến hệ thống các cơ quan chức năng.
- Gây ung thư.
- Hư bào thai.
- Ảnh hưởng đến các thế hệ tương lai (đột biến gien).
- Bệnh bụi phổi.
- Ảnh hưởng đến chức năng sinh sản
3.1 Kích thích
Khi tiếp xúc với hóa chất các phần của cơ thể thường hay bị tác động kích
thích là da, mắt và đường hô hấp.
a) Kích thích đối với da
Khi một hóa chất tiếp xúc với da, có thể chúng sẽ làm biến đổi các lớp bảo
vệkhiến cho da bị khô, xù xì và xót.
b) Kích thích đối với mắt
Hóa chất nhiễm vào mắt có thể gây tác động từ khó chịu nhẹ, tạm thời tới thưng
tật lâu dài. Mức độ thưng tật phụ thuộc vào lượng, độc tính của hóa chất và các
biện pháp cấp cứu.
c) Kích thích đối với đường hô hấp
Một số loại hóa chất hòa tan như: amoniac, fomandehơit, sunfur, axít và kiềm ở
dạng mù sương,khí hoặc hơi khơi tiếp xúc với đường hô hấp trên (mũi và họng) sẽ
gây ra cảm giác bỏng rát vì sự ẩm ướt của đường mũi họng. Một vài chất kích
thích như sunfua đioxít, clo và bụi than... tác động dọc theo đường thở gây ra
viêm phế quản, đôi khơi gây tổn thương trầm trọng đường thở và mô phổi.
Các hóa chất ít tan trong nước sẽ xâm nhập vào vùng trao đổi khí. Các chất này
ít xuất hiện ở nơi làm việc song những tổn thương mà chúng gây ra đối với người
lao động thì rất nghiêm trọng.
3.2 Gây ngạt
Có 2 dạng ngạt là ngạt thở vật lý và ngạt thở hóa học
a) Ngạt thở vật lý
Bình thường không khí chứa khoảng 21% ôxy, nếu nồng độ ôxy hạ xuống dưới 19.5%
thì không đủ để đáp ứng nhu cầu của các tổ chức cơ thể và xuất hiện các triệu
chứng hoa mắt, chóng mặt, buồn nôn và rối loạn hành vi. Một số loại khí như
metan, Nito…khi nồng độ tăng sẽ chiếm chỗ thay thế oxy và gây ngạt vật lý
b) Ngạt hóa học
Chất gây ngạt hóa học ngăn cản máu vận chuyển ôxy tới các tổ chức của cơ thể.
Chất gây ngạt đặc trưng cho loại này là CO (gây cacboxyhemoglobin). Các chất
khác như hyđro xianua, hoặc hyđro sunfua...cản trở khả năng tiếp nhận ôxy của tế
bào, ngay cả khi máu giàu ôxy.
3.3 Gây mê và gây tê
Tiếp xúc với nồng độ cao một số hóa chất như: etanol, propanol, axeton và
metyl-etyxeton, axetylen, hyđrocacbon, etyl và isopropyl ete... có thể làm suy
yếu hệ thần kinh trung ưng, gây ngất thậm chí dẫn đến tử vong
3.4 Gây tác hại tới hệ thống các cơ quan của cơ thể
Cơ thể con người được tạo nên bởi nhiều hệ cơ quan. nhiễm độc hệ thống liên quan
tới tác động của hóa chất tới một hoặc nhiều cơ quan trong cơ thể, làm ảnh hưởng
tới toàn bộ cơ thể.
Một số hóa chất có thể gây tổn thương cho gan như alcol, cacbon tetraclorua,
tricloetylen, clorofom…
Các hóa chất cản trở thận đào thơi chất độc gồm etylen glycol, cacbon đisunphua,
cacbon tetraclorua, cacbon đisulphua... Các hợp chất khác như cađmi, chì, nhựa
thông, etanol, toluen, xylen... sẽ làm hỏng dần chức năng của thận.
Hệ thần kinh có thể bị tổn thương do tác động của các hóa chất nguy hiểm
3.5 Gây ung thư
Khi tiếp xúc lâu dài với một số hóa chất có thể tạo sự phát triển tự do
của tế dẫn đến khối u - ung thư. Các chất như asen, amiăng, crom, niken,
bis-clometyl ete (BCME)... có thể gây ung thư phổi. Ung thư da do tiếp xúc với
asen, sản phẩm dầu mỏ và nhựa than. Ung thư gan có thể do tiếp xúc vinyl clorua
đơn thể, trong khi ung thư tủy xương là do benzen.
3.6 Hư thai (quái thai)
Dị tật bẩm sinh có thể là hậu quả của việc tiếp xúc với các hóa chất gây cản trở
quá trình phát triển bình thường của bào thai. Di chứng chất độc màu da cam ở
Việt Nam là một ví dụ cho tác động này của hóa chất.
3.7 Ảnh hưởng đến các thế hệ tương lai
Một số hóa chất tác động đến cơ thể người gây đột biến gen tạo những biến đổi
không mong muốn trong các thế hệ tương lai.
3.8 Bệnh bụi phổi
Bệnh bụi phổi hay bệnh ho dị ứng do hít nhiều bụi, là tình trạng lắng đọng các
hạt bụi nhỏ ở vùng trao đổi khí của phổi và phản ứng của các mô trước sự hiện
diện của bụi.
3.9 Ảnh hưởng đến chức năng sinh sản
Một số hóa chất nguy hiểm có thể tác động tới hệ sinh dục, làm mất khả năng sinh
sản ở đàn ông và sẩy thai ở phụ nữ đang mang thai. Các chất như: etylen
đibromua, khí gây mê, cacbon đisunphua, clopren, benzen, chì, các dung môi hữu
cơ... có thể làm giảm khả năng sinh sản ở nam giới. Tiếp xúc với thuốc gây mê
thể khí, glutaranđehơit, clopren, chì, các dung môi hữu cơ, cacbon đisunphua và
vinyl clorua có thể sẩy thai.